Doanh Nghiệp Xuất Khẩu Nông Sản

Doanh Nghiệp Xuất Khẩu Nông Sản

Các kệ hàng mẫu trong khu kho hàng lạnh của sàn giao dịch nông sản OFT ở Canada. (Ảnh: TTXVN phát)

Các kệ hàng mẫu trong khu kho hàng lạnh của sàn giao dịch nông sản OFT ở Canada. (Ảnh: TTXVN phát)

Thị trường Đức có nhu cầu vải thiều của Việt Nam không? Doanh nghiệp có thể tiếp cận thị trường này như thế nào?

Người tiêu dùng Đức rất thích thực phẩm đặc trưng châu Á như trái vải… Siêu thị của Đức đã có các mặt hàng trái cây của Việt Nam, dù còn khiêm tốn về số lượng.

Về giá nhập khẩu, vải tại thị trường này có giá tương đối cao, một phần do chi phí vận chuyển xuất khẩu lớn.

Hiện Vietnam Airlines và Bamboo Airlines đã có đường bay thẳng đến Đức. Đây là lợi thế của doanh nghiệp Việt khi muốn xuất khẩu trái vải sang đây.

Doanh nghiệp muốn đi theo đường trực tiếp đến Đức tương đối khó do bảo quản nông sản chỉ trong thời điểm ngắn hạn, doanh nghiệp cần đảm bảo chất lượng hàng khi đến phía đối tác.

Nhu cầu cà phê và cà phê rang xay tại thị trường Đức như thế nào?

Cà phê của Việt Nam ở Đức đang phát triển rất tốt. Trước đây, người tiêu dùng Đức chủ yếu dùng cà phê châu Âu. Hiện nay, xu hướng đó đang dần chuyển sang cà phê Việt Nam.

Hiện nay, cà phê Việt xuất sang Đức chủ yếu là dạng thô và qua các bên trung gian. Doanh nghiệp hoàn toàn có thể cung ứng trực tiếp cho các nhà máy rang xay.

Để phát triển bền vững tại Đức, doanh nghiệp nên chế biến, liên kết thương hiệu và phát triển cà phê rang xay mang thương hiệu của mình.

Trong thời gian qua, có nhiều nhà cung cấp cà phê ở Việt Nam đã bắt đầu tiếp cận thị trường Đức. Tuy nhiên, đây đều là các công ty nhỏ, không có nguồn lực tài chính tạo nguồn lực cung cấp sản phẩm.

Có 2 gợi ý mà doanh nghiệp có thể sử dụng để tiếp cận thị trường Đức:

Thứ nhất, doanh nghiệp có thể tạo một website để giới thiệu sản phẩm của mình, có sử dụng cả tiếng Anh và tiếng Việt.

Thứ hai, các công ty nhỏ liên kết với nhau, tạo thành một mạng lưới liên kết, chia sẻ và giúp đỡ nhau. Ở Đức, mô hình kết hợp này cũng đã có. Các doanh nghiệp nhỏ kết hợp với nhau, tạo ra một mạng lưới phân phối hàng hóa, cùng với nhau tổ chức các buổi hội chợ. Một mặt, doanh nghiệp có thể giảm chi phí tổ chức, một mặt có thể thường xuyên giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm các đối tác ngay tại hội chợ.

Những sản phẩm enzim trái cây có tiềm năng xuất khẩu sang Đức không?

Các sản phẩm enzim về trái cây như đồ uống, hương vị trái cây rất được ưa chuộng tại Đức. Doanh nghiệp có thể cung ứng trực tiếp đối với khách hàng có kênh phân phối dòng sản phẩm này nếu như đối tác Việt Nam đủ uy tín.

Trước hết, Nhật Bản là một trong những quốc gia có tiêu chuẩn chất lượng với hàng nhập khẩu khắt khe nhất thế giới. Đối với hàng nông, lâm, thủy sản phải đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh ATTP, kiểm dịch động thực vật và đòi hỏi phải được sản xuất, nuôi trồng theo các tiêu chuẩn GAP, HACCP hay JAS – Tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật… Các lô hàng vi phạm quy định về chất lượng sẽ bị tiêu hủy hoặc trả lại, đồng thời Hải quan Nhật Bản sẽ tăng cường tần suất và mức độ kiểm tra hàng hóa trong những lần sau, có thể gây ra nhiều phiền phức và làm tăng chi phí cho doanh nghiệp xuất khẩu.

Thứ hai, hệ thống phân phối hàng hóa tại Nhật Bản nổi tiếng phức tạp với nhiều tầng cấp khác nhau và các chức năng riêng biệt. Đơn cử, hầu như mọi chuỗi siêu thị của Nhật Bản không nhập khẩu hàng trực tiếp từ nhà cung ứng nước ngoài, mà mua qua các đầu mối nhập khẩu lớn. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp xuất khẩu phải thiết lập được mối quan hệ tốt với các đầu mối nhập khẩu lớn của Nhật Bản. Thực tế, doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu xuất khẩu cho các công ty thương mại và các nhà bán buôn Nhật Bản. Việc tiếp cận các kênh khác như hệ thống cửa hàng bán lẻ, các nhà chế biến công nghiệp còn rất hạn chế. Hiện, hầu hết các công ty Việt Nam chưa có hệ thống đại diện hoặc chi nhánh tại thị trường Nhật Bản.

Thủy sản là một trong những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh tại thị trường Nhật Bản; Ảnh: Vũ Sinh

Thứ ba, thị hiếu tiêu dùng và văn hóa kinh doanh của người Nhật rất đặc thù. Khi mua hàng thì chất lượng là yếu tố được người dân tại đây quan tâm nhất. Do hàng hóa nội địa của Nhật có chất lượng cao, nên tâm lý tiêu dùng của người Nhật là luôn đòi hỏi các sản phẩm (kể cả các sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài) phải có chất lượng tốt. Bên cạnh đó, người Nhật cũng rất chú trọng đến giá cả, mẫu mã, kích thước, màu sắc, công dụng… của sản phẩm. Chính vì vậy, doanh nghiệp muốn có chỗ đứng tại thị trường Nhật cần tìm hiểu thị hiếu của người tiêu dùng Nhật Bản, từ đó đa dạng hóa mẫu mã, hình thức sản phẩm, song song với với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành.

Thứ tư, về văn hóa kinh doanh, khi gặp gỡ đối tác Nhật lần đầu tiên, doanh nghiệp Việt Nam cần mang theo danh thiếp, catalogue, hồ sơ giới thiệu công ty, hàng mẫu… Cần đảm bảo đúng giờ và giữ lời khi đã hứa hẹn một việc gì đó với đối tác. Thông thường, thiết lập quan hệ hợp tác kinh doanh với doanh nghiệp Nhật Bản không hề đơn giản, nhiều trường hợp phải có sự giới thiệu của bên thứ 3 uy tín thì doanh nghiệp Nhật mới tin tưởng.

Khi đã có được mối quan hệ làm ăn với đối tác Nhật, doanh nghiệp cần chú trọng duy trì mối quan hệ đó một cách lâu dài, bền vững. Trong quá trình đàm phán/trao đổi, đối tác Nhật có thể đưa ra các yêu cầu như thay đổi mẫu mã hoặc kích thước sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu của người Nhật…. doanh nghiệp Việt Nam nên cố gắng tích cực đáp ứng những yêu cầu đó. Nếu những đòi hỏi phía đối tác đưa ra quá khắt khe, doanh nghiệp Việt Nam có thể trao đổi lại cụ thể để tìm ra phương hướng giải quyết phù hợp nhất.

Thực tế cho thấy, doanh nghiệp nỗ lực để xuất khẩu được hàng hóa vào thị trường Nhật Bản giống như một mũi tên trúng hai đích. Bởi nếu chất lượng của một sản phẩm đã được thị trường Nhật Bản chấp thuận thì sản phẩm đó hoàn toàn có thể cạnh tranh tốt được ở các thị trường khác.

Hiện nay, có nhiều kênh hỗ trợ của Việt Nam và Nhật Bản mà doanh nghiệp hoàn toàn có thể tận dụng như: Vụ Thị trường châu Á – châu Phi, Cục Xúc tiến thương mại, Cục Xuất nhập khẩu, các Thương vụ Việt Nam, các Sở Công thương (Bộ Công thương); các đơn vị của Bộ NN&PTNT, các hiệp hội ngành hàng, các tổ chức xúc tiến thương mại của nước ngoài…

Cũng theo Tham tán Việt Nam tại Nhật Bản, doanh nghiệp cũng có thể tìm thông tin, tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế nhằm giới thiệu hàng hóa, sản phẩm với các khách hàng nước ngoài. Một trong những kênh thông tin về các hội chợ, triển lãm mà các doanh nghiệp cần cập nhật là website: vietnamexport.com hoặc qua email, mạng xã hội. Với những doanh nghiệp không sang trực tiếp được Nhật Bản thì có thể gửi hàng mẫu sang trưng bày tại phòng mẫu của Thương vụ Việt Nam tại Nhật, hoặc trưng bày tại các triển lãm lớn tổ chức tại Nhật với đầu mối là Thương vụ Việt Nam tại Nhật.

Ngoài trái cây tươi, người tiêu dùng Mỹ còn ưa chuộng hàng đông lạnh, có thể bảo quản được lâu, tiện dụng. Các doanh nghiệp có thể đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng chế biến sẵn bằng công nghệ hiện đại.

Vị thế mới của nông sản Việt tại Mỹ

Năm 2022, ngành nông nghiệp đã lập kỷ lục khi mang về kim ngạch xuất khẩu 53,2 tỷ USD, trong đó, các nhà nhập khẩu Mỹ đã mua từ Việt Nam gần 14 tỷ USD nông, thủy sản các loại, chiếm 25% trong tổng giá trị xuất khẩu nông sản của Việt Nam

Với kim ngạch này, Mỹ đã trở thành thị trường xuất khẩu nông sản lớn nhất của Việt Nam, vượt qua cả Trung Quốc.

Hợp tác nông nghiệp Việt - Mỹ đã có bước tiến vượt bậc kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1995. Việt Nam từ chỗ đứng thứ 95 trong các đối tác của Mỹ, nay đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ 8 của Mỹ, với kim ngạch thương mại song phương năm 2022 gần 123 tỷ USD. Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, vượt 100 tỷ USD vào cuối năm ngoái.

Các chuyên gia cho biết, nhu cầu thưởng thức những loại nông sản, trái cây chất lượng cao từ vùng nhiệt đới của người Mỹ đang tăng lên, người tiêu dùng Mỹ ngày càng ưa thích các loại trái cây đặc sản Việt Nam như trái vải tươi, thanh long, xoài. Gần đây nhất, trái bưởi đã được Mỹ cho phép nhập khẩu chính thức, đưa Việt Nam có 7 loại quả tươi được xuất đi Mỹ.

Trong số các nhóm mặt hàng nông, lâm, thủy sản, Mỹ đang mua nhiều nhất hạt điều, thủy sản, gỗ, trái cây của Việt Nam.

Từ năm 2020, Mỹ đã trở thành bạn hàng lớn nhất trong thương mại nông, lâm, thủy sản với Việt Nam. Ngay cả trong giai đoạn Covid-19, suy thoái kinh tế, đứt gãy chuỗi cung ứng, nhưng cả xuất khẩu và nhập khẩu nông, lâm, thủy sản giữa Việt Nam và Mỹ đều tăng ở mức 2 con số.

Báo cáo thị trường nông sản của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) cho thấy, nhập khẩu nông sản của Mỹ năm 2023 được dự báo ở mức 199 tỷ USD, cao hơn 5 tỷ USD so với mức thực hiện của năm ngoái. Đây là cơ hội cho các nhà xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam tăng tốc xuất khẩu vào thị trường này.

Tại buổi tiếp đoàn doanh nghiệp của Hội đồng Kinh doanh Mỹ - ASEAN (USABC) đến tìm kiếm cơ hội đầu tư tại Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho hay, trong lĩnh vực nông nghiệp, Việt Nam tiếp tục nghiên cứu, ban hành các chính sách khuyến khích cụ thể, dài hạn, tạo sức hấp dẫn bằng các cơ chế, chính sách thiết thực, quy định pháp lý rõ ràng, đồng thời đề nghị các doanh nghiệp Mỹ quan tâm đầu tư trong lĩnh vực này.

Thủ tướng đề nghị, doanh nghiệp Mỹ tăng hỗ trợ doanh nghiệp, người dân Việt Nam trong việc kết nối cơ sở sản xuất với thị trường tiêu thụ, hai bên đàm phán để tiếp tục mở rộng thị trường cho trái cây, cá da trơn, tôm… của Việt Nam.

Ông Jason Hafemeiser, quyền Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp Mỹ trước đó đã nhiều lần khẳng định, Mỹ luôn coi Việt Nam là một trong những đối tác hàng đầu về nông nghiệp. Nông nghiệp hai nước có tính bổ trợ cho nhau để cùng phát triển, theo đó, việc mở cửa cho trái cây của Việt Nam đang được thúc đẩy tích cực.

Giá xuất khẩu cần cạnh tranh hơn

Chi phí sản xuất của ngành nông nghiệp Việt Nam ngày càng tăng cao do áp lực của giá xăng dầu và chuỗi cung ứng, đặc biệt là việc đầu tư quy trình sản xuất xanh, giảm phát thải theo yêu cầu từ các nhà mua hàng tại Mỹ, EU cũng đặt các doanh nghiệp Việt vào tình thế phải chuyển đổi để theo kịp.

Chưa kể, với khoảng cách địa lý xa xôi, chi phí vận chuyển cao, nên nông sản Việt xuất đi Mỹ đang loay hoay tìm cách hạ tối đa giá thành sản xuất để cạnh tranh.

Trước sức ép về giá, các doanh nghiệp Mỹ khuyến cáo, Việt Nam cần tăng đầu tư cho công nghệ bảo quản để trái cây tươi có thể đi đường biển sang Mỹ, tận dụng các FTA để có ưu đãi thuế quan tốt nhất, giúp hàng hóa cạnh tranh hơn.

Ngoài trái cây tươi, các doanh nghiệp Việt Nam có thể đẩy mạnh các mặt hàng chế biến sẵn bằng công nghệ hiện đại. Tin vui là năm ngoái, lần đầu tiên, xuất khẩu rau quả chế biến vượt 1 tỷ USD.

Về dài hạn, phải triển khai các giải pháp phát triển mô hình “nông nghiệp thông minh”, với việc áp dụng công nghệ vào nông nghiệp, nâng cao năng suất, giảm thiểu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.

Với kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản sang Mỹ lên đến gần 14 tỷ USD trong năm 2022, cho thấy Mỹ là thị trường tiềm năng để nông sản Việt tăng tốc xuất khẩu trong nhiều năm tới, song hành với đó là các hoạt động đàm phán để mở cửa thị trường cho một số loại trái cây chất lượng cao của Việt Nam vẫn đang tiếp tục.

Dù vậy, trước chính sách bảo hộ của các nước ngày một tăng, các nhà xuất khẩu Việt Nam cần lưu ý những vụ việc điều tra chống bán phá giá, lưu trữ hồ sơ hàng hóa xuất khẩu. Thị trường Mỹ ngày càng quan tâm nhiều đến các vấn đề an toàn cho người tiêu dùng, phát triển bền vững, chống biến đổi khí hậu và đó sẽ là tiền đề để dựng lên những tiêu chuẩn mới, quy định mới liên quan đến chuỗi cung ứng, nguyên liệu sạch.