Băng tan là gì, một hiện tượng tự nhiên nhưng ẩn chưa khám phá sâu hơn về những thay đổi đang diễn ra trên Trái Đất. Hiện tượng này là một dấu hiệu của sự thay đổi khí hậu toàn cầu đồng thời có ảnh hưởng sâu sắc tới môi trường sống của chúng ta.
Băng tan là gì, một hiện tượng tự nhiên nhưng ẩn chưa khám phá sâu hơn về những thay đổi đang diễn ra trên Trái Đất. Hiện tượng này là một dấu hiệu của sự thay đổi khí hậu toàn cầu đồng thời có ảnh hưởng sâu sắc tới môi trường sống của chúng ta.
Hãy cùng tìm hiểu những hậu quả mà hiện tượng băng tan gây ra, từ những thay đổi từ môi trường tự nhiên và ảnh hưởng tới đời sống con người.
Băng tan ở các vùng như Siberia có thể giải phóng khí metan từ các lớp băng vĩnh cửu (permafrost), một loại khí nhà kính mạnh, làm tăng tốc độ biến đổi khí hậu.
Hiện tượng này cũng làm mực nước biển dẫn đến nguy cơ ngập lụt các khu vực ven biển, là nguyên nhân xâm nhập mặn ở Việt Nam và nhiều quốc gia khác. Điều này dẫn đến việc đất đai ít đi có thể các đảo, quần đảo bị nhấn chìm gây ảnh hưởng đến cư dân sinh sống ở những vùng này.
Nước biển dâng cao làm thay đổi môi trường sống của nhiều loài sinh vật biển, đứng trước nguy cơ tuyệt chủng của một số loài như nhuyễn thể, cua, san hô, v.v.
Các sông băng là nguồn cung cấp nước ngọt quan trọng cho nhiều vùng. Khi chúng tan chảy quá nhanh, các hồ sông băng không thể cung cấp nước ổn định, dẫn đến thiếu hụt nước ngọt cho con người và động thực vật.
Nhiều loài động vật và thực vật phụ thuộc vào môi trường băng và tuyết. Khi băng tan, nhiệt độ trung bình tăng lên, môi trường sống của chúng bị phá hủy, dẫn đến sự biến mất hay nguy cơ tuyệt chủng.
Cùng với đó, những thay đổi về môi trường do băng tan có thể tạo điều kiện cho các loài xâm lấn phát triển, gây hại cho hệ sinh thái bản địa. Ví dụ: Loài cáo đỏ vốn sống ở Bắc Mỹ, nay đã di chuyển đến Bắc Cực. Loài Gấu Bắc cực cũng vậy, với tình trạng tan chảy càng nhanh, loài gấu này sẽ gặp khó khăn trong việc kiếm ăn.
Tình trạng băng tan ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống sinh hoạt con người, cụ thể:
Hiện tượng băng tan khiến cho mực nước dâng cao, đe dọa tới nhiều thành phố ven biển trên thế giới. Dưới đây là danh sách những thành phố có nguy cơ cao:
Do biến đổi khí hậu làm quá trình ấm lên toàn cầu nhanh hơn từ đó làm tăng tốc độ tan chảy của băng. Chúng tan nhanh hơn vào mùa hè vượt qua lượng tuyết rơi vào mùa đông, dẫn đến giảm tổng lượng băng trên Trái Đất.
Trong hơn 100 năm qua, các sông băng và băng vĩnh cửu đang thu hẹp, đặc biệt ở Greenland cũng tan nhanh hơn. Lượng băng biển giảm, đặc biệt là ở Bắc Cực tan chả nhanh hơn so với Nam Cực, nơi đây độ dày chỉ còn một nửa so với năm 1950.
Hiện tượng này có thể thay đổi dòng chảy đại dương. Dự đoán rằng nước tại Bắc Băng Dương có thể không còn ở thể rắn vào mùa hè cuối thế kỷ này.
Hiện tượng băng tan là gì đã được giải đáp, đây là một trong những dấu hiệu rõ rệt nhất của biến đổi khí hậu, gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với môi trường tự nhiên và đời sống con người. Việc tìm hiểu và ghi nhớ giúp bạn có có thêm kiến thức về địa lý và nâng cao ý thức bảo vệ môi trường.
Nước băng tan là nước được giải phóng bởi sự tan chảy của tuyết hoặc băng, bao gồm sông băng, tảng băng trôi và thềm băng trên đại dương. Nước băng tan thường được tìm thấy trong vùng băng hà, nơi mức độ tuyết phủ ngày càng giảm do ấm lên toàn cầu.
Khi nước băng tan đọng lại trên bề mặt thay vì chảy đi, nó tạo thành các ao, hồ băng tan. Khi thời tiết trở nên lạnh hơn nước băng tan thường sẽ đóng băng lại. Nước băng tan có thể thu thập hoặc tan chảy dưới bề mặt của băng. Những hồ nước này, được gọi là hồ sông băng có thể hình thành do sức nóng địa nhiệt và ma sát.
Nước băng tan cung cấp nước uống cho một tỷ lệ lớn dân số thế giới, cũng như cung cấp nước cho thủy lợi và các nhà máy thủy điện. Một vài thành phố trên thế giới có những hồ lớn thu thập tuyết chảy để bổ sung nước cung cấp. Các thành phố coa nguồn nước từ nước băng tan bao gồm Melbourne, Canberra, Los Angeles, Las Vegas.
Nước băng tan từ các sông băng rút đi theo thời gian. Thông thường, sông chảy qua sông băng vào hồ. Những hồ nước xanh lấp lánh này có màu sắc từ "bột đá", trầm tích được vận chuyển qua sông tới các hồ. Trầm tích này xuất phát từ đá dưới sông băng nghiền vào nhau. Bột mịn sau đó được lơ lửng trong nước và hấp thụ và phân tán các màu sắc khác nhau của ánh sáng mặt trời,[1] tạo ra một màu xanh.
Nước băng tan cũng hoạt động như một chất bôi trơn trong việc trượt dốc cơ bản của sông băng. GPS đo dòng chảy băng cho thấy chuyển động sông băng lớn nhất trong mùa hè khi mực nước băng tan cao nhất [2].
Nước băng tan có thể là một dấu hiệu của sự thay đổi khí hậu đột ngột. Một ví dụ của một vật thể tan chảy lớn là trường hợp của một nhánh của dòng băng Bindschadler, Tây Nam Cực, nơi chuyển động thẳng đứng của bề mặt băng cho thấy sự chuyển dịch của một vùng nước dưới sông băng.[3]
Nó cũng có thể làm mất ổn định các hồ sông băng dẫn đến lũ lụt bất ngờ và làm mất ổn định tuyết đóng gây ra tuyết lở.[4]
Trong một báo cáo được xuất bản vào tháng 6 năm 2007, Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc ước tính sự ấm lên toàn cầu có thể 40% dân số thế giới vì mất các sông băng, tuyết liên hệ đến nước băng tan ở châu Á [4]. Về mặt lịch sử, Meltwater pulse 1A là một đặc điểm nổi bật của sự thoái hóa cuối cùng và đã diễn ra 14.7-14.2 nghìn năm trước [5].
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ao băng tan là những hồ nước mở hình thành trên băng biển vào những tháng ấm áp của mùa xuân và mùa hè. Các ao cũng được tìm thấy trên sông băng và thềm băng. Ao băng tan cũng có thể phát triển dưới lớp băng.
Ao băng tan thường tối hơn băng xung quanh, và sự phân bố và kích thước của chúng rất khác nhau. Chúng hấp thụ bức xạ mặt trời thay vì phản chiếu nó như băng và do đó, có ảnh hưởng đáng kể đến cân bằng bức xạ của Trái Đất. Sự khác biệt này, chưa được nghiên cứu một cách khoa học cho đến gần đây, có ảnh hưởng lớn đến tốc độ tan băng và mức độ bao phủ của băng.[1]
Ao băng tan có thể tan chảy ra bề mặt đại dương.[2] Nước biển chảy vào ao làm tăng tốc độ tan chảy vì nước mặn của đại dương ấm hơn nước ngọt của ao. Sự gia tăng độ mặn cũng làm giảm điểm đóng băng của nước.
Nước từ các ao băng tan trên bề mặt đất có thể chảy vào các kẽ nứt hoặc cối xay sông băng - các ống dẫn dưới các tảng băng hoặc sông băng - biến thành nước băng tan. Nước có thể chạm đến đá bên dưới. Hiệu ứng này là sự gia tăng tốc độ dòng chảy băng đến các đại dương, vì chất lỏng này hoạt động giống như một chất bôi trơn trong trượt đáy của sông băng.[3]
Tác động của ao băng tan rất đa dạng (tiểu mục này đề cập đến ao băng tan trên các dải băng và thềm băng). Nghiên cứu của Ted Scambos, thuộc Trung tâm dữ liệu băng tuyết quốc gia Hoa Kỳ, đã ủng hộ lý thuyết nứt gãy nước tan chảy cho thấy quá trình tan chảy liên quan đến các ao băng tan có ảnh hưởng đáng kể đến sự tan rã của thềm băng.[4] Sự tan chảy theo mùa tạo thành ao và thâm nhập dưới sông băng cho thấy sự tăng tốc và sự giảm tốc theo mùa của các dòng băng ảnh hưởng đến toàn bộ dải băng.[5] Thay đổi tích lũy bằng cách tạo ao trên các dải băng xuất hiện trong hồ sơ trận động đất ở Greenland và các sông băng khác:[6] "Các trận động đất dao động từ 6 đến 15 lần mỗi năm từ năm 1993 đến 2002, sau đó nhảy lên 20 vào năm 2003, 23 năm 2004 và 32 trong 10 tháng đầu năm 2005."[7] Tạo ao ở trạng thái tột bậc là hồ và hồ kết hợp với sông băng được kiểm tra trong trường hợp cụ thể của lụt Missoula.
Băng tan là hiện tượng những khối băng tách rời nhau thành những mảng nhỏ trôi nổi rồi sụt lún xuống bề mặt đại dương. Quá trình này khiến sông băng trên thế giới ngày càng mất ổn định và mực nước biển dâng cao. Hiện tượng này đã dến đến một số hậu quả ảnh hưởng đến cuộc sống của con người và Trái Đất.
Khi nhiệt độ trung bình của trái đất tăng cao, lượng băng ở hai cực sẽ tan ra. Kèm theo đó là lớp băng CO2 vĩnh cửu bị lộ ra và tham gia vào hoạt động tuần hoàn của tất cả sinh vật sống trên trái đất. Một lượng lớn khí CO2 trong khí quyển trăng cao sẽ gây ra hiệu ứng nhà kính, làm suy giảm tầng Ozon. Cây xanh sẽ vì vậy mà ít đi do bị quá tải CO2 khiến cho trái đất nóng lên.
Nhiệt độ tăng cũng làm trầm trọng thêm tình trạng ô nhiễm không khí từ tầng ozone. Đặc biệt, khí thải từ xe cộ, nhà máy và các nguồn khác phản ứng với ánh sáng mặt trời và nhiệt, v.v. Tầng ôzôn trên mặt đất là tác nhân chính gây ra sương mù quang hóa. Và nhiệt độ càng cao, lớp sương mù càng dày. Không khí ô nhiễm dẫn đến tỷ lệ nhập viện và tử vong ở bệnh nhân hen suyễn tăng lên. làm trầm trọng thêm tình trạng của người bị bệnh tim hoặc phổi.
Những đợt nắng nóng kéo dài làm khô đất, dẫn đến tình trạng thiếu nước uống, cháy rừng không kiểm soát, bão bụi và lũ quét. Ở nhiều nơi trên thế giới, tình trạng thiếu nước dẫn đến những căn bệnh nghiêm trọng. Ngược lại, mưa lớn khiến sông hồ tràn bờ, phá hủy nhà cửa. Ô nhiễm nguồn nước uống, phát tán chất thải và ô nhiễm không khí. Đồng thời, điều kiện nóng ẩm cũng tạo điều kiện cho các bệnh truyền qua nguồn nước và thực phẩm phát triển.
Băng tan sẽ khiến mực nước biển dâng cao có thể dẫn đến hiện tượng “biển xâm thực” – nước biển xâm nhập sâu vào đất liền. Điều này dẫn đến tình trạng xâm nhập mặn ở các vùng ven biển, ven sông ngày càng gia tăng. Đặc biệt, nơi đây còn thiếu nước ngọt phục vụ sản xuất và đời sống. Ngoài ra, các đảo, quần đảo và vùng ven biển cũng có thể bị nhấn chìm, người dân sẽ mất đất đai và nhà cửa. Hơn nữa, nước biển cũng có tính axit hơn, chủ yếu là do sự hấp thụ khí thải. Nếu nồng độ này tiếp tục gia tăng, sinh vật biển sẽ đứng trước nguy cơ tuyệt chủng rất lớn. Đặc biệt là các loài có vỏ hoặc có xương như nhuyễn thể, cua, san hô, v.v.
Tác động đối với tàu thuyền đi trên biển
Băng tan sẽ tạo ra những tảng băng lớn và trôi dạt trên biển. Điều này làm ảnh hưởng đến việc tàu thuyền đi lại. Khi những con tàu đang di chuyển trên biển va chạm với những tảng băng trôi lớn, con tàu sẽ bị hư hại nặng nề thậm chí có thể bị nhấn chìm.
Con người không thể tránh khỏi những hậu quả mà chính họ đã gián tiếp tạo ra như dịch bệnh, thiên tai, mất mùa... Chúng đã, đang và sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân loại. Nhân loại sẽ phải đối mặt với những khó khăn lớn đe dọa sự sống trên Trái đất.
Hiện tượng băng tan làm tăng nhiệt độ trung bình của trái đất làm thay đổi môi trường sống của nhiều loại động vật dẫn đến sự biến mất hoặc nguy cơ tuyệt chủng của các loài. Do mất môi trường sống do đất hoang hóa, nạn phá rừng và mực nước biển nóng lên, khoảng 50% các loài động thực vật sẽ bị đe dọa tuyệt chủng vào năm 2050 nếu nhiệt độ trái đất tăng thêm 1,1 đến 6,4 độ C. Ví dụ, cáo đỏ từng sống ở Bắc Mỹ, hiện đã di chuyển đến Bắc Cực. Gấu bắc cực cũng là một loài điển hình. Nếu lượng băng tan với tốc độ chóng mặt như hiện nay, loài gấu này sẽ khó kiếm ăn. Tương tự gấu Bắc Cực, chim cánh cụt Nam Cực cũng chịu chung số phận. Khi bề mặt băng giảm đi đồng nghĩa với việc mất đi môi trường sống và nguồn thức ăn.
Nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng băng tan là do các hoạt động của con người gây ra. Do vậy, để hạn chế hiện tượng băng tan cần có một số biện pháp như: Không nên chặt phá rừng, trồng thêm nhiều cây xanh. Không thải các khí độc hại, rác ra ngoài môi trường, đặc biệt sông, suối, hồ, biển,… Các nhà máy, xí nghiệp cần phải xử lý chất thải trước khi thải ra ngoài môi trường để giảm thiểu các chất độc hại ra ngoài môi trường.Không xả rác bừa bãi, phân loại rác và xử lý đúng chỗ. Tất cả những biện pháp này đều làm giảm độ nóng của Trái Đất, có thể làm giảm việc các lớp băng tan ra./.